Chủ Nhật, 31 tháng 1, 2021

Thuốc chữa bệnh sùi mào gà tốt nhất

 Sùi mào gà – Human papiloma virút (HPV) là một trong một số tác nhân lây truyền qua đường tình dục phổ biến. Ngày 6/10/2008, giải Nobel y học 2008 đã được trao cho nhà khoa học Đức Harald zur Hausen (72 tuổi) với công trình phát hiện virút HPV, tác nhân dẫn tới bệnh ung thư cổ tử cung. Trong lúc HIV gần như không xa lạ với con người thì HPV đang là vấn đề hình ảnh bệnh sùi mào gà thời sự.

Hơn 120 mẫu HPV đã được xác định cũng như được gọi bằng số, tuy nhiên chỉ có 40% số đấy gây viêm nhiễm con đường sinh dục cũng như 15% dạng HPV có nguy cơ gây ung thư cổ tử cung tại phụ nữ. Các mẫu 16, 18, ​​31, 33, 35, 39, 45, 51, 52, 56, 58, 59, 68, 73, cũng như 82 chất dẫn đến ung thư có nguy cơ cao lan truyền qua đường dục tình HPV cũng như có khả năng dẫn tới sự phát triển của tân trong biểu mô cổ tử cung (CIN), tân trong biểu mô âm hộ (VIN), tân trong biểu mô bộ phận sinh dục nam (PIN), cũng như / hoặc tân trong biểu mô con đường ở vùng hậu môn (AIN).

  • Có ba nhóm chính:
    • loại nguy cơ ung thư sinh dục cao: HPV-16, 18, 31, 33, 35, 45, 51, 52, 58 ..
    • dòng ở sinh dục và nguy cơ ung thư thấp: HPV -6, 11
    • loại tại da : HPV-1, 2, 3, 4, 5, 7, 8, 10, 27, 57, 60, … da một số loại: HPV-1, 2, 3, 4, 5, 7, 8, 10, 27, 57, 60

Cách lây truyền bệnh

HPV lây nhiễm thông qua tiếp xúc trực tiếp sinh dục, quan hệ nam nữ thuốc chữa bệnh sùi mào gà thông qua đường âm đạo và vùng hậu môn. HPV cũng có thể lan truyền sinh dục – miệng hay cọ sát vùng nhạy cảm với sinh dục, dục tình đồng tính.

Người nhiễm HPV có khả năng ủ bệnh tiềm tàng cả năm sau khi tiếp xúc với người mắc bênh HPV. Phần lớn một số người bị nhiễm không nhận biết được giai đoạn tiềm tàng. Một người bị nhiễm HPV có thế một hoặc rất nhiều typ phối hợp

HPV sinh dục có khả năng được lây nhiễm từ mẹ sang con trong lúc đẻ, HPV sinh dục tại trẻ sơ sinh là rất hiếm

Cơ chế dẫn tới bệnh

tổn thương HPV được cho là phát sinh từ sự phát triển của lớp tế bào sừng mắc nhiễm. Nhiễm trùng thường thấy lúc các tế bào này tiếp xúc với virus sẽ xuất hiện trong quá trình quan hệ hoặc vết trầy xước nhỏ ngoài da.

Quá trình diễn tiến từ nhiễm virút tới ung thư thường lâu dài, từ loạn sản nhẹ, vừa, nặng tới ung thư ở chỗ (giai đoạn tổn thương có thể phục hồi và trị khỏi hoàn toàn) tới ung thư xâm lấn (không có khả năng phục hồi).

biểu hiện chẩn đoán

HPV (Sùi mào gà) lây nhiễm từ người này sang người khác qua đường tình dục. Điều này có thể xuất hiện thông qua giao hợp hay chỉ qua tiếp xúc vùng nhạy cảm. Hầu hết hiện tượng nhiễm HPV không có triệu chứng hay triệu chứng, và virus có thể được lây nhiễm thậm chí khi không có dấu hiệu (như là mụn cóc hoặc các dấu hiện chi tiết khác). Trong 90% những hiện tượng, hệ thống miễn dịch của cơ thể sẽ loại thải virus HPV tự nhiên trong vòng 2 năm.Thuốc có thể làm cho mụn biến mất nhanh hơn. Tuy nhiên HPV vẫn còn lại trong cơ thể, cũng như người nhiễm có thể bị tái phát. Nếu bị nhiễm trùng mạn tính, khả năng xuất hiện ung thư mới được tính tới. Cách thức sử dụng máy soi và lấy dịch thương tổn xét nghiệm cho kết quả chính xác. Song, HPV có khả năng quan sát bằng một số thương tổn chúng gây ra ra:

  • tại vùng nhạy cảm mụn cóc ( mụn rộp sinh dục)

Đối với nam giới, một số HPV gây ra mụn cóc hay sùi mào gà dương vật.

Mụn cóc ở dương vật thường dẫn đến đau, ngứa hoặc chảy máu. Mụn có rất nhiều hình dạng cũng như kích thước không giống nhau. Mụn có thể to, có khi có khả năng nhỏ mà mắt thường không nhìn thấy, có khả năng xảy ra riêng lẻ hoặc từng đám, mọc thành chùm nhỏ như bông suplơ hay mảng trắng phẳng tương đối khó nhận ra

Phụ nữ có thể nhiễm HPV mà không phải biểu hiện biểu hiện. Đôi khi tình cờ xét nghiệm tế bào âm đạo PAP hay xét nghiệm dịch âm đạo tìm ra HPV

Hiếm lúc, mụn cóc ở cổ họng – một hiện trạng gọi là papillomatosis hô hấp tái phát, triệu chứng trên lâm sàng có thể chặn đường thở, gây ra một giọng nói khàn hay thở phiền phức.

các mụn rôp sinh dục bộ phận sinh dục thường thăm khám chuyên khoa mới phát hiện.

  • Sùi mào gà (HPV) biến đổi tế bào ở cổ tử cung dẫn đến ung thư cổ tử cung, hoặc ung thư âm hộ-âm đạo, bộ phận sinh dục nam, vùng hậu môn cũng như hầu họng (mặt sau của cổ họng, lưỡi cũng như amiđan).

khi ung thư chưa xâm lấn, người bệnh hầu như không phải triệu chứng lâm sàng, có khả năng ra rất nhiều khí hư hơn bình thường, kiểm tra phụ khoa cũng không thấy thương tổn. Tuy, nếu người phụ nữ thường xuyên kiểm tra phụ khoa đúng định kỳ cũng như làm cho xét nghiệm tế bào (được khuyên rằng với tất cả một số phụ nữ có giao hợp tình dục), bệnh sẽ được phát hiện ra. Khi này, khả năng trị khỏi là 95%.

lúc ung thư đã xâm lấn, các dấu hiệu mới rõ rệt như ra khí hư có mùi hôi, xuất huyết giữa kỳ kinh, sau mãn kinh hoặc sau giao hợp… tại thời kỳ cuối, người mắc bệnh có khả năng đau bụng dưới, đau lưng, tỷ lệ sống thêm 5 năm chỉ còn khoảng 5%.

Mặc dù mối liên hệ giữa HPV cũng như ung thư cổ tử cung còn bàn cãi, nhưng y học cũng nhận thấy rằng HPV chỉ là một trong khá nhiều tác nhân gây bệnh. Ngoài virút này, còn có một số yếu tố nguy cơ khác như quan hệ vợ chồng kịp thời, có khá nhiều bạn tình, giao hợp với người nam chưa tiểu phẫu cắt da lớp da bọc dương vật hoặc có da quy đầu che phủ, nhiễm clamydia, nhiễm HIV, hút thuốc lá, gia đình có người mắc ung thư cổ tử cung, phụ nữ mang thai khá nhiều lần, dùng thuốc tránh thai con đường uống…

Cận lâm sàng

Xét nghiệm HPV: Phân lập tìm virút HPV, định typ HPV, phâm nhóm nguy cơ cao hoặc nguy cơ thấp.

Một kết quả xét nghiệm HPV âm tính chỉ có khả năng nói Hiện nay người kiểm tra không có tình trạng nhiễm HPV, tuy nhiên không nói được trước kia đã mắc nhiễm chưa và nếu như có, Hiện tại, tình trạng nhiễm này đã dẫn tới thương tổn cổ tử cung hay chưa.

Một kết quả xét nghiệm HPV dương tính (thậm chí với HPV nguy cơ cao) chỉ nói được Hiện nay người kiểm tra có tình hình nhiễm HPV (không biết là sơ nhiễm, tái nhiễm hoặc nhiễm kéo dài)

chữa trị

Hiện nay chưa có cách thức chữa https://suimaoga.webflow.io/ tận gốc sùi mào gà một cách chắc chắn

Việc phá hủy những tổn thương quan sát được nhằm mục đích làm giảm hậu quả. Tổn thương cổ tử cung chữa trị bằng kỹ thuật nhiệt trị liệu Laser, nhiệt trị liệu điện, Hồng ngoại, áp lạnh hay bằng phẫu thuật, hay khoét chóp- cắt cổ tử cung. Điều tri ở chỗ ngoài da bằng chấm podophiline 10-25% hoặc can thiệp phẫu thuật – thủ thuật Lưu ý là một số phương pháp trên phải được thực hiện bởi chuyên gia.

Sau lúc trị liệu, virút vẫn còn cho dù các tổn thương đã hết. Vì thế, cần phải theo dõi sự quay trở lại của tổn thương trong vài tháng sau khi cắt bỏ.

phương pháp trị liệu khác kích thích miễn dịch đang được phát triển.

Phòng bệnh

  • Tiêm phòng vaccin như Cervarix, Gardasil. Một số vaccine này được tiêm phòng ba lần. Tuổi tiêm phòng hàng đầu 11 -12 tuổi.
  • dùng BCS
  • các hóa chất có thể ngăn chặn lây nhiễm HPV trước khi chuyện ấy. Những chất này được biết đến như thuốc diệt khuẩn ở chỗ
  • giao hợp chung thuỷ một vợ – một chồng, hay chuyện phòng the với đối tượng xác định không mắc bệnh.

Thứ Bảy, 31 tháng 10, 2020

Phác đồ điều trị bệnh sùi mào gà


Phác đồ điều trị bệnh sùi mào gà

Nhận định chung

Sùi mào gà sinh dục là một bệnh lay truyền qua đường tình dục hay gặp, do Human papilloma virus (HPV) gây nên. - Hầu hết người nhiễm HPV không có biểu hiện lâm sàng, tỷ lệ có triệu chứng chỉ khoảng 1 - 2%.

HPV thuộc nhóm có DNA, nhân lên trong tế bào thượng bì.

Có ít nhất 35 týp HPV gây bệnh ở sinh dục, týp 6 và 11 chiếm tới 90%. Các týp 16, 18, 31, 33 và 35 có thể gây loạn sản tế bào và gây ung thư.

Các yếu tố thuận lợi cho nhiễm HPV là nhiều bạn tình, mắc các STI khác.

Virút xâm nhập vào niêm mạc sinh dục qua các thương tổn nhỏ ở thượng bì và nằm ở lớp đáy. HPV có thể lây truyền cho trẻ sơ sinh qua đường sinh dục của mẹ, gây u nhú ở thanh quản.
Phác đồ điều trị bệnh sùi mào gà sinh dục là (Genital wart)

Nguyên tắc chung

Xét nghiệm phát hiện HPV và định chủng.

Cần khám nghiệm các bệnh lây truyền qua đường tình dục khác.

Khám và điều trị bạn tình.

Tư vấn, giáo dục sức khỏe về chẩn đoán, các phương pháp điều trị có thể sử dụng cho người bệnh, khả năng bệnh có thể tái phát, mối liên quan của bệnh với ung thư và khả năng lây nhiễm bệnh.

Điều trị cụ thể

Việc lựa chọn phương pháp điều trị cần phải cân nhắc về tuổi người bệnh, vị trí thương tổn, số lượng, kích thước tổn thương và khả năng chuyên môn cũng như trang thiết bị của cơ sở điều trị.

Các thuốc điều trị được phân làm hai loại:

Người bệnh tự bôi

Podophylotoxin 0,5% dạng dung dịch hoặc kem. Đây là thuốc chống phân bào, có thể bôi mà không cần rửa và ít gây độc toàn thân. Thuốc bôi ngày 2 lần bằng tăm bông, bôi 3 ngày liên tiếp rồi nghỉ 4 ngày, điều trị một đợt 4 tuần. Kem imiquimod 5% kích thích sản xuất interferon và các cytokin. Người bệnh bôi bằng tay 3 lần/tuần, tới 16 tuần. Sau khi bôi 6 - 10 giờ phải rửa bằng nước và xà phòng nhẹ. Hướng dẫn người bệnh bôi đúng cách trong lần đầu và yêu cầu khám định kỳ để theo dõi và đánh giá hiệu quả điều trị.

Hai loại thuốc này không sử dụng bôi thương tổn ở quanh hậu môn, trực tràng, niệu đạo, âm đạo và cổ tử cung. Không có dữ liệu về sự an toàn đối với phụ nữ có thai.

Điều trị tại cơ sở y tế

Bôi podophyllin là một chất chống phân bào, dung dịch 10 - 25% trong cồn ethanol hoặc cồn benzoin. Bôi để khô, rửa sạch sau khoảng 1- 4 giờ. Bôi 1- 2 lần/tuần, trong 6 tuần. Một lần bôi tối đa 0,5 ml hoặc trên một diện tích thương tổn < 10 cm2 cho một lần điều trị để hạn chế độc tính của thuốc như làm ức chế tủy xương. Không dùng cho phụ nữ có thai, cho con bú.

Trichloroacetic (TCA) hoặc bichloroacetic (BCA) 80 - 90% được dùng bôi các thương tổn nhỏ, ẩm ướt. Thầy thuốc bôi cho người bệnh hàng tuần, trong tối đa 6 tuần. Cần phải cẩn thận khi bôi để tránh tổn hại vùng da-niêm mạc lành.

Dùng bicarbonnat hay vaselin bôi xung quanh thương tổn để bảo vệ vùng da xung quanh.

Các phương pháp điều trị khác bao gồm nạo thương tổn, phẫu thuật cắt bỏ thương tổn, phẫu thuật điện, laser, tiêm interferon hoặc 5-fluorouracin.

Các phẫu thuật đơn giản bằng dao, kéo hoặc laser CO2, đốt điện cần phải gây tê. Phương pháp này chỉ định cho các thương tổn lớn, cho phụ nữ có thai. Đốt điện chống chỉ định cho người bệnh mắc máy tạo nhịp tim, thương tổn ở gần hậu môn.

Điều trị lạnh làm phá hủy thương tổn bệnh và một vùng nhỏ tổ chức xung quanh nên được chỉ định cho các thương tổn nhỏ. Điều trị mỗi tuần 1- 2 lần trong 4 - 6 tuần. Sử dụng đầu áp lạnh hoặc phun nitơ lỏng vào thương tổn. Có thể cần gây tê vì điều trị lạnh gây đau. Hiệu quả điều trị và sự an toàn phụ thuộc vào kỹ năng và kinh nghiệm của thầy thuốc.

Tiêm interferon hoặc 5-fluorouracin/cấy epinephrine gel có hiệu quả trong điều trị các thương tổn nhỏ và ít. Tuy nhiên, có một số tác dụng phụ và giá thành đắt.

Tất cả các trị liệu sùi mào gà đều có thể gây đau, kích thích hoặc ảnh hưởng toàn thân. Nếu sau đợt điều trị 6 tuần thất bại, cần chuyển cách điều trị khác. Cũng cần sinh thiết thương tổn hoặc chuyển chuyên gia.

Thuốc chữa bệnh sùi mào gà tốt nhất

  Sùi mào gà – Human papiloma virút (HPV) là một trong một số tác nhân lây truyền qua đường tình dục phổ biến. Ngày 6/10/2008, giải Nobel y ...